KHÁI QUÁT NHỮNG NGUYÊN TẮC DẠY HỌC ĐẠI HỌC VÀ VIỆC VẬN DỤNG CÁC NGUYÊN TẮC DẠY HỌC NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC CÁC MÔN KHOA HỌC MÁC - LÊNIN Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI HIỆN NAY
Nguyễn Thị Thu Hà
Trong thời đại ngày nay, không một quốc gia nào trên thế giới lại không thấy rõ vị trí nền tảng, vai trò then chốt của giáo dục đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng một trong những yếu tố tạo nên sự phát triển bền vững, sự tiến bộ vượt bậc cho mỗi quốc gia chính là yếu tố giáo dục. Cùng với sự đóng góp lớn lao đó, giáo dục đã tham gia một cách trực tiếp và đóng vai trò quyết định trong chiến lược phát triển con người. Giáo dục là cái không thể thiếu để nâng cao trình độ văn hóa, trình độ khoa học, kỹ thuật, xử lý công nghệ, tổ chức quản lý và năng lực hoạt động thực tiễn của người lao động. Trong một xã hội hiện đại, trình độ và năng lực ấy của người lao động đã trở thành nhân tố quan trọng và là điều kiện thiết yếu cho một xã hội phát triển bền vững.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII đã chỉ rõ, để đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa, thì giáo dục phải “là quốc sách hàng đầu”; trong đó, cần tạo chuyển biến “quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục, đào tạo gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động. Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, đảm bảo dân chủ, thống nhất, chất lượng; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo. Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; đổi mới chính sách cơ chế, tài chính, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, tr. 27), đó chính là nền tảng, động lực quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm “xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, tr. 126).
Trong bối cảnh nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, giáo dục Việt Nam phải đổi mới toàn diện, đặc biệt là đổi mới về nội dung, phương pháp giảng dạy và phương pháp giáo dục. Trong đổi mới giáo dục và trong việc không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục, thì chất lượng và hiệu quả giáo dục phụ thuộc rất lớn vào việc sử dụng các phương pháp, hình thức, nguyên tắc, các kỹ thuật cùng khả năng tổ chức, điều hành, dẫn dắt sinh viên chiếm lĩnh, khám phá tri thức hay các chuẩn mực đạo đức, pháp luật, văn hóa… của người giảng viên. Nếu năng lực và khả năng vận dụng kiến thức của người thầy đến sinh viên tốt thì chất lượng và hiệu quả giáo dục sẽ cao, và ngược lại.
Như vậy, dạy học ở bậc đại học là một dạng hoạt động có sự tương tác giữa người thầy và người học, trong đó có sự truyền thụ và lĩnh hội những tri thức kỹ năng, kỹ xảo đáp ứng mục tiêu giáo dục Đại học đã đề ra. Có thể nói, người thầy trong giảng dạy ở bậc đại học có vị trí và vai trò đặc biệt trong việc đào tạo ra những công dân đáp ứng cho nhu cầu của xã hội. Bởi mục tiêu của giáo dục đại học là đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân; có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo; có sức khỏe, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Trường Đại học Đồng Nai là nơi đào tạo nguồn nhân lực cho tỉnh Đồng Nai và các vùng, miền lân cận. Với truyền thống hơn 40 năm hình thành và phát triển, trường Đại học Đồng Nai hiện nay đang là một trong những trường đại học đào tạo nguồn nhân lực có uy tín của Tỉnh cũng như của khu vực phía Nam. Trong tiến trình đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển đất nước, trường đại học Đồng Nai đã không ngừng hoàn thiện cả về cơ cấu, tổ chức và đặc biệt là đổi mới về phương pháp, cách thức... trong trương trình đào tạo của mình. Hiện nay, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại những thay đổi sâu rộng cho nền giáo dục về môi trường học, phương pháp giảng dạy và vai trò của giảng viên. Những yêu cầu về nâng cao chất lượng giáo dục đòi hỏi sự chuyển đổi trong vai trò của giảng viên từ người truyền thụ kiến thức truyền thống sang người hướng dẫn và thiết kế môi trường học tập tiên tiến, giúp người học tự định hướng việc học. Nắm bắt được xu hướng đó, đội ngũ giảng viên trường đại học Đồng Nai nói chung cũng như bộ môn Lý luận chính trị nói riêng luôn phấn đấu đổi mới phương pháp, hình thức, cách thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá chuẩn đầu ra... trong quá trình giảng dạy dựa trên những nguyên tắc trong quá trình dạy học, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo của nhà trường nói riêng, góp phần trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, đặc biệt là sự nghiệp đổi mới nền giáo dục của Việt Nam trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay.
Vậy đội ngũ giảng viên Bộ môn Lý luận chính trị của trường đại học Đồng Nai đã vận dụng các nguyên tắc dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học các môn khoa học Mác – Lênin như thế nào? Cần có những kiến nghị, đề xuất gì để nâng cao hơn nữa hiệu quả vận dụng các nguyên tắc dạy học ở đại học trong việc giảng dạy các môn khoa học Mác – Lênin ở trường Đại học Đồng Nai hiện nay? Đó là những lý do mà tác giả muốn tập trung trong bài viết: “Khái quát những nguyên tắc dạy học đại học và việc vận dụng các nguyên tắc dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học các môn khoa học Mác – Lênin ở trường Đại học Đồng Nai hiện nay”
I. KHÁI QUÁT NHỮNG NGUYÊN TẮC DẠY HỌC ĐẠI HỌC
1. Khái niệm về nguyên tắc dạy học Đại học
Nguyên tắc dạy học là những luận điểm cơ bản có tính quy luật của lý luận dạy học Đại học, chỉ đạo toàn bộ tiến trình dạy và học nhằm thực hiện tốt mục đích, nhiệm vụ dạy học ở Đại học.
Nguyên tắc dạy học là phạm trù lịch sử. Lịch sử phát triển nhà trường và lí luận dạy học đã chỉ ra rằng mục đích giáo dục biến đổi dưới tác động của những yêu cầu của xã hội đã dẫn đến sự biến đổi những nguyên tắc dạy học. Lí luận dạy học phải nhạy bén nắm bắt sự biến đổi những yêu cầu của xã hội đối với việc giáo dục thế hệ trẻ, phản ứng kịp thời đối với những yêu cầu đó, xây dựng hệ thống những nguyên tắc dạy học, chỉ ra một cách đúng đắn phương hướng chung đi đến mục đích. Đồng thời cũng cần bảo toàn và hoàn thiện những nguyên tắc dạy học đã hình thành trước đây song chưa mất ý nghĩa trong hoàn cảnh mới của hoạt động nhà trường phổ thông.
Các nguyên tắc dạy học được xác định dựa trên những cơ sở sau:
- Dựa vào mục tiêu giáo dục;
- Dựa vào các qui luật dạy học và dựa vào đặc điểm tâm sinh lý của sinh viên;
- Dựa vào kinh nghiệm xây dựng các nguyên tắc dạy học trước đó.
2. Hệ thống các nguyên tắc dạy học ở đại học
- Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính khoa học, tính giáo dục và tính nghề nghiệp trong quá trình dạy học.
- Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nghề nghiệp trong quá trình dạy học
- Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa cái cụ thể và cái trừu tượng trong dạy học.
- Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính vững chắc của tri thức và tính mềm dẻo của tư duy.
- Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức trong quá trình dạy học.
- Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa vai trò tự giác tích cực, độc lập của sinh viên với vai trò chủ đạo của giáo viên trong dạy học.
- Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa cá nhân và tập thể trong quá trình dạy học.
2.1. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính khoa học, tính giáo dục và tính nghề nghiệp trong quá trình dạy học
Trang bị hệ thống tri thức cơ bản, cơ sở, chuyên ngành; nội dung hiện đại, chân chính khoa học, chính xác… đáp ứng yêu cầu thực tiễn nghề nghiệp
- Trang bị phương pháp nghiên cứu, tự học, thói quen suy nghĩ và làm việc khoa học
- Chú trọng giáo dục phẩm chất và năng lực nghề nghiệp.
2.2. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nghề nghiệp trong quá trình dạy học
- Trang bị lí luận về nhà nước đồng thời tổ chức vận dụng vào hoạt động thực tiễn, hoàn thiện lí luận và vốn sống thực tiễn về nhà nước.
- Cân đối lí thuyết và thực hành, thực nghiệm, hoạt động thực tế, thực tập…
- Nguyên tắc này giúp sinh viên không bỡ ngỡ khi vào nghề, có thể tham gia và đóng góp tích cực vào thực tiễn nghề nghiệp.
2.3. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa cái cụ thể và cái trừu tượng trong dạy học
Đặc trưng chung của chương trình giảng dạy đại học chính là hệ thống tri thức được trừu tượng hóa và khái quát hóa cao. Nguyên tắc này có những đặc trưng cơ bản:
- Sinh viên có khả năng nhận thức cao, tiếp nhận tri thức trừu tượng bằng vốn kinh nghiệm cụ thể.
- Coi trọng đúng mức việc bồi dưỡng lí thuyết trừu tượng, khái quát và sử dụng hợp lý, không lạm dụng phương tiện trực quan.
- Sử dụng vốn sống của sinh viên, những minh chứng, minh hoạ cụ thể, làm sáng tỏ lí thuyết trừu tượng.
2.4. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính vững chắc của tri thức và tính mềm dẻo của tư duy
Với những đặc trưng cơ bản:
- Lựa chọn, trang bị tri thức cơ bản cần lưu giữ, vận dụng lâu dài
- Luyện tập vận dụng một cách hệ thống những tri thức cơ bản vào tình huống học tập và thực tiễn phong phú của nghề nghiệp.
- Củng cố, ôn tập tích cực và luôn mở rộng, đào sâu tri thức nhằm gia tăng, đổi mới vốn hiểu biết nghề nghiệp của sinh viên.
2.5. Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức trong quá trình dạy học
- Dạy học phù hợp với trình độ chung đồng thời giúp mỗi sinh viên phát triển tối đa khả năng của bản thân.
- Phân hoá, cá biệt hoá hoạt động của sinh viên bằng những phương pháp tổ chức, điều khiển hoạt động học tập của sinh viên một cách uyển chuyển và đa dạng... (đào tạo theo tín chỉ).
2.6. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa vai trò tự giác tích cực, độc lập của sinh viên với vai trò chủ đạo của giáo viên trong dạy học
- Giáo viên tổ chức, điều khiển, lãnh đạo hoạt động nhận thức của sinh viên.
- Sinh viên tiến hành nhận thức học tập có tính nghiên cứu (khẳng định/ phủ định; phê phán, đánh giá, bổ sung, phát triển, đào sâu, hoàn thiện…).
2.7. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa cá nhân và tập thể trong quá trình dạy học
- Chuẩn bị cho sinh viên ý thức và kỹ năng làm việc nhóm, đáp ứng yêu cầu của xã hội về năng lực và phẩm chất của trí thức tương lai.
- Tổ chức các hoạt động học tập nhóm song song với học tập cá nhân.
- Đánh giá công bằng, hợp lý thành quả học tập của cá nhân và tập thể.
II. VẬN DỤNG CÁC NGUYÊN TẮC DẠY HỌC ĐẠI HỌC NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC CÁC MÔN KHOA HỌC MÁC - LÊNIN Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI HIỆN NAY
Nguyên tắc dạy học ở đại học là những nguyên lý chung của sự tổ chức dạy học về mặt nội dung, phương pháp, hình thức, nhằm thực hiện mục đích dạy học và phù hợp với những quy luật khách quan tác động vào sự dạy học của giảng viên và học tập của sinh viên. Hệ thống các nguyên tắc dạy học ở nước ta có nền tảng, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, được thể hiện ở đường lối giáo dục của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những nội dung lý luận của các nguyên tắc dạy học ở đại học luôn được đội ngũ các thầy, cô giáo Bộ môn Lý luận chính trị vận dụng một cách phù hợp với đối tượng nghiên cứu của từng môn học, ngành học và mang lại hiệu quả nhất định trong hoạt động dạy và học ở Đại học Đồng Nai hiện nay. Hiện nay Bộ môn Lý luận chính trị có 14 cán bộ giảng dạy được đào tạo cơ bản theo đúng chuyên ngành đảm trách; Trong đó có 4 tiến sĩ, 2 nghiên cứu sinh, 8 thạc sĩ. Ý thức rõ trách nhiệm của mình, đội ngũ giảng viên Bộ môn Lý luận chính trị luôn quan tâm đến việc đổi mới phương pháp dạy và học, coi đó là một giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo. Điều đó được thể hiện ở hiệu quả của việc vận dụng các nguyên tắc dạy học trong mỗi bài giảng của môn học mà mỗi giảng viên được đảm nhiệm.
Thứ nhất, đối với Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính khoa học, tính giáo dục và tính nghề nghiệp trong dạy học đại học. Thuận lợi cơ bản của Bộ môn Lý luận chính trị hiện nay khi thực hiện nguyên tắc này trong dạy học là đã có giáo trình chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Giáo trình của môn học đảm bảo được tính hệ thống, khoa học, hiện đại và cập nhật (hàng năm được tập huấn bổ sung) . Tuy nhiên, thực tiễn luôn luôn vận động, biến đổi. Tính cập nhật của bài giảng đòi hỏi giảng viên phải thường xuyên tiếp cận thông tin nhằm làm cho giờ giảng được sinh động, phong phú, gắn với thực tiễn địa phương và đất nước. Trên cơ sở đó, cung cấp những tri thức khoa học cơ bản tạo nền tảng học vấn cho sinh viên. Nên sinh viên có điều kiện tiếp thu tri thức khoa học cơ sở và tri thức khoa học chuyên ngành. Việc học tập tốt các bộ môn khoa học trị Mác – Lênin là cơ sở lý luận và phương pháp luận để học tập tốt hơn các môn khoa học chuyên ngành. Đồng thời, tạo được niềm tin khoa học cho sinh viên, chống lại những quan điểm duy tâm như tư tưởng "định mệnh", an bài với "số mệnh", thiếu ý chí vươn lên... chống lại quan điểm siêu hình - nhìn nhận sự vật hiện tượng trong mối quan hệ cô lập, tách biệt nhau, không thấy được sự vận động và phát triển của chúng. Sự thống nhất giữa tính khoa học, tính giáo dục và tính nghề nghiệp được thể hiện ở chức năng giáo dục phẩm chất đạo đức cho sinh viên - một trong những chức năng quan trọng của các bộ môn khoa học Mác – Lênin. Thông qua nội dung của các bài giảng của những học phần, đội ngũ giảng viên đã trực tiếp cung cấp những tri thức khoa học, lý luận để xây dựng nên thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận khoa học, lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội... cho sinh viên, hình thành phẩm chất đạo đức cần thiết để xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, phù hợp với định hướng nghề nghiệp tương lai theo mục tiêu đào tạo của nhà trường. Một khi những kiến thức quan điểm, lập trường, đạo đức, lẽ sống cách mạng của chủ nghĩa xã hội khoa học và tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành máu thịt, trở thành ý chí, khát vọng, trở thành nghị lực, tình cảm chi phối hành động của sinh viên thì khi ra trường họ sẽ trở thành một con người hữu ích cho xã hội, một chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng văn hóa, chính trị, khoa học, lao động sản xuất và là chiến sĩ xung kích trong sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều cần tránh trong vận dụng nguyên tắc này là sự nghèo nàn thông tin trong bài giảng, đưa ra những thông tin thiếu căn cứ khoa học, thiếu tính hệ thống và lạc hậu đến người học.
Thứ hai, Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa vai trò tự giác tích cực, độc lập của sinh viên với vai trò chủ đạo của giáo viên trong dạy học. Thực hiện nguyên tắc này trong hoạt động dạy học, đội ngũ giảng viên của Bộ môn luôn tạo được quan hệ bình đẳng với sinh viên. Với việc sử dụng kết hợp các phương pháp giảng dạy khác nhau như phương pháp thuyết trình, phương pháp đối thoại, phương pháp nêu vấn đề... giúp cho giảng viên phát huy được ưu điểm của từng phương pháp cùng một lúc, đồng thời khắc phục được những hạn chế của từng phương pháp. Ưu thế của sự kết hợp những phương pháp với nhau chính là tạo thành một quy trình khép kín giữa giảng viên và sinh viên, tạo thế liên hoàn giúp sinh viên vừa có thể nắm bắt một cách cơ bản nội dung các vấn đề giảng viên truyền đạt trên lớp với đối thoại trực tiếp để trao đổi ngay những vấn đề trong nội dung bài học đặt ra và giải đáp những câu hỏi của sinh viên, đưa sinh viên vào tình huống; thông qua đối thoại, thông qua tranh luận giữa các sinh viên, giúp sinh viên hiểu sâu sắc nội dung bài giảng, đưa lý luận vào cuộc sống. Đối với những vấn đề nào còn khó, cần nhiều thời gian, cần tìm hiểu thêm tài liệu và thực tế thì giảng viên sẽ gợi mở, định hướng cho sinh viên tự giải quyết thông qua thực hiện bài tập lớn, xêmina và nghiên cứu khoa học. Phương pháp này yêu cầu sinh viên phải động não, rèn luyện tính linh hoạt, từng bước khắc phục tình trạng thụ động trong tiếp thu kiến thức và phát triển năng lực tư duy; loại bỏ dần cách dạy "nhồi nhét", và kiểu "học vẹt", học "đối phó" của sinh viên. Việc vận dụng nguyên tắc này sẽ bị hạn chế, nếu công tác chuẩn bị của giảng viên sơ sài, không tạo được mối quan hệ dân chủ, bình đẳng giữa thầy và trò trong dạy và học.
Thứ ba, Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nghề nghiệp trong quá trình dạy học. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, học đi đôi với hành không dừng lại chỗ sau giờ học lý thuyết, sinh viên xuống các cơ sở để thực tập, tìm hiểu. Thực tiễn giảng dạy các bộ môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở Đại học Đồng Nai cho thấy, nguyên tắc này đã được vận dụng ngay từ khi giảng viên chuẩn bị bài giảng. Điều này có nghĩa là, trong mỗi bài giảng với nội dung cụ thể, nhiều giảng viên đã tạo ra được tình huống thực tiễn cần giải quyết. Trước tình huống này buộc sinh viên phải động não, tìm hiểu, suy đoán để lý giải nó. Nhu cầu cần thiết phải có một tri thức (khái niệm, phạm trù mới...), lý luận mới để giải quyết vấn đề mà tình huống thực tiễn đặt ra sẽ tạo cho sinh viên một tâm thế tích cực, chủ động tiếp thu lý luận mà không hề cảm thấy bị gò ép hay chán nản. Trong giảng dạy, việc sử dụng thủ pháp này đòi hỏi giảng viên phải nhuần nhuyễn trong việc kết hợp các phương pháp giảng dạy khác nhau. Chẳng hạn, khi thấy sinh viên có biểu hiện mệt mỏi, chán nản trong giờ học thì giảng viên có thể chủ động chuyển sang sử dụng phương pháp đối thoại, gợi mở vấn đề và hướng dẫn cho sinh viên thảo luận theo một nội dung nhất định. Hoặc khi giảng một vấn đề quá trừu tượng như khái niệm, phạm trù, quy luật... thấy sinh viên tỏ ra không hiểu, giáo viên có thể sử dụng phương pháp mô hình hóa để phân biệt được một cách rõ ràng, rành mạch từng vấn đề, giúp cho sinh viên nhanh chóng tiếp cận, nhận biết tri thức mới. Điều đó sẽ khơi dậy trong sinh viên niềm hứng thú đối với môn học, kích thích họ tự đi sâu nghiên cứu các hiện tượng và các quá trình kinh tế của đời sống xã hội, nắm được bản chất của chúng, các quy luật chi phối và cơ chế hoạt động của các quy luật đó. Qua đó, trang bị cho sinh viên phương pháp luận khoa học để tự lý giải các vấn đề khác của thực tiễn. Vận dụng nguyên tắc này, trong nội dung lý thuyết của mỗi bài giảng, thường được giảng viên minh họa bằng thực tiễn sinh động, phong phú về tình hình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, của đất nước, của thế giới với những thông tin cập nhật đa dạng, phong phú. Qua đó, giúp cho sinh viên nắm vững đường lối, chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, xây dựng động cơ học tập đúng đắn, có niềm tin vươn lên học tập tốt hơn.
Thứ tư, Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính cụ thể và tính trừu tượng. Quá trình dạy và học các môn lý luận khoa học Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung ở Đại học Đồng Nai cơ bản đều tuân theo quy luật nhận thức: "từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn". Nghĩa là quá trình nhận thức đã diễn ra sự di chuyển từ cái cụ thể sang cái trừu tượng, từ vật chất đến ý thức, từ dấu hiệu và biểu tượng đến khái niệm và ngược lại... Song, do đặc trưng của các học phần là phải giảng dạy một khối lượng hệ thống các khái niệm, phạm trù và quy luật rất nhiều. Vì thế trong giảng dạy, muốn nâng cao được chất lượng dạy và học, đòi hỏi giảng viên phải kết hợp sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để giúp cho sinh viên tìm ra khái niệm, phạm trù và quy luật khách quan chi phối sự vận động của các hiện tượng, các quá trình khác nhau. Giảng viên tuân thủ nguyên tắc hướng dẫn sinh viên nghiên cứu bắt đầu từ "trực quan sinh động" (nghĩa là từ cái cụ thể chưa được nhận thức, giải thích khoa học) để tìm ra dấu hiệu, biểu tượng của các hiện tượng, quá trình... đi đến khái niệm (cái trừu tượng) và ngược lại từ cái trừu tượng đến cái cụ thể (cái cụ thể ở đây đã được nhận thức, giải thích khoa học). Do đó, cho dù cả hai "cái cụ thể" ở đây có sự khác nhau về chất, nhưng đều thống nhất với "cái trừu tượng" là những khái niệm, phạm trù... Kết quả của quá trình tự nghiên cứu của sinh viên sẽ giúp cho họ nắm được tri thức và phát triển năng lực họat động trí tuệ trong học tập. Khi vận dụng nguyên tắc này, cần phải có sự nỗ lực của cả thầy và trò trong giờ học. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp hiệu quả vận dụng đạt chưa cao, khi trong suốt giờ học giảng viên chỉ sử dụng phương pháp thuyết trình để cung cấp khái niệm, phạm trù... cho sinh viên dưới dạng những "tiên đề toán học".
Thứ năm, Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính vững chắc của tri thức và tính mềm dẻo của tư duy. Giảng viên bộ môn Lý luận chính trị của Đại học Đồng Nai vận dụng nguyên tắc này khá thành công khi sử dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề hoặc phương pháp đàm thoại. Đây là phương pháp nhằm tăng cường vận dụng hệ thống các phương pháp nhận thức khoa học vào quá trình giáo dục sinh viên. Phương pháp này đòi hỏi giảng viên phải tập trung vào người học và họat động học, lấy sinh viên làm trung tâm. Những tình huống có vấn đề được giảng viên nêu ra trong giờ học phải gây được hứng thú học tập cho sinh viên, kích thích tính tích cực tự lực trong học tập. Thông qua thảo luận, trao đổi sinh viên sẽ nhanh chóng lĩnh hội được kiến thức sâu sắc hơn về các phạm trù như: vật chất, ý thức, tư bản, hàng hóa sức lao động, tư bản bất biến, tư bản khả biến, giá trị thặng dư... Ở đây, quá trình dạy học được thống nhất với quá trình nhận thức có tính chất nghiên cứu của sinh viên. Như vậy, trong họat động học tập của sinh viên không chỉ có năng lực nhận thức thông thường, mà còn cần tiến hành họat động nhận thức mang tính chất nghiên cứu trên cơ sở khả năng độc lập, sáng tạo, mềm dẻo phát triển ở mức cao, dưới tác dụng chủ đạo của giảng viên. Tính chất nghiên cứu trong họat động học tập của sinh viên thể hiện ở việc nắm các phạm trù, quy luật đã được phát hiện với óc phê phán.
Thứ sáu, Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức trong quá trình dạy học. Hiện nay khi vận dụng nguyên tắc tính vừa sức, đội ngũ giảng viên của Bộ môn rất coi trọng đặc điểm chung của từng lớp được phân công giảng dạy để chuẩn bị nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đối tượng. Thực hiện đúng quy chế của Bộ Giáo dục và Đào tạo về kiểm tra học trình và thông qua việc thực hiện phương pháp đàm thoại trong dạy học để nắm được trình độ chung của lớp, trình độ cụ thể của từng sinh viên. Từ đó, quyết định điều chỉnh phương pháp, bổ sung bài giảng kịp thời, phù hợp với trình độ nhận thức chung của mỗi lớp và với riêng từng sinh viên. Thực tế ở Đại học Đồng Nai hiện nay, do có nhiều loại hình đào tạo và nhiều ngành học khác nhau, nên trình độ nhận thức về các môn khoa học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung của các đối tượng đào tạo có sự khác nhau ở mức độ nhất định. Nguyên tắc tính vừa sức đòi hỏi giảng viên trực tiếp giảng dạy ở các lớp này phải nỗ lực và tâm huyết tìm ra cách thức sử dụng kết hợp các phương pháp giảng dạy khác nhau để có thể hình thành nên một phương pháp giảng dạy mới thích hợp với từng đối tượng sinh viên. Kết quả bước đầu đã tạo hứng thú, kích thích ý thức tự lực, cố gắng vươn lên trong học tập của sinh viên. Điều cần tránh khi vận dụng nguyên tắc này trong giảng dạy, giảng viên không nên ôm đồm kiến thức, đưa ra những kiến thức vượt quá sức tiếp thu của sinh viên và giới thiệu quá nhiều tài liệu tham khảo, nhưng thiếu trọng tâm, gây nên tâm lý "lo sợ" cho người học.
Thứ bảy, Bảo đảm sự thống nhất giữa cá nhân và tập thể trong quá trình dạy học. Nguyên tắc này được vận dụng nhiều trong giờ học xêmina. Quỹ thời gian thực hiện xêmina cho mỗi đơn vị học trình của môn học theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo luôn được bộ môn khai thác sử dụng triệt để. Bởi lẽ, việc tổ chức xêmina trong giảng dạy các học phần ở các trường đại học đang ngày càng phát huy vai trò tích cực về nhiều mặt đối với cả giảng viên và sinh viên, xêmina giúp cho sinh viên chủ động trong nghiên cứu, tiếp thu kiến thức môn học và rèn luyện tư duy lô gíc, khả năng thuyết trình. Hình thức học tập này tạo điều kiện cho sinh viên giúp đỡ nhau trong học tập rất nhiều. Có những khái niệm, phạm trù và nội dung, yêu cầu, tác dụng, hình thức biểu hiện, cơ chế hoạt động của các quy luật kinh tế rất trừu tượng, nhưng thông qua thảo luận, trao đổi ở nhóm, tổ học tập có sự hướng dẫn của giảng viên, sinh viên đã nhanh chóng lĩnh hội được tri thức. Đây cũng là một bước trong quá trình chuyển hóa từ kiến thức tới quan điểm độc lập, tới niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối, chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Qua đó, xây dựng niềm tin cho sinh viên trong học tập và định hướng nghề nghiệp cho tương lai. Đối với giảng viên, sau mỗi giờ học xêmina sẽ nắm bắt được tình hình học tập của từng sinh viên, của từng nhóm sinh viên và của cả lớp trên cả ba phương diện: thái độ, kiến thức và phương pháp. Trên cơ sở đó, giảng viên có thể mở rộng hay thu hẹp mức độ nông, sâu của nội dung, tạo điều kiện cho sinh viên gắn hoạt động học tập với thực tiễn bằng việc thực hiện các bài tập lớn, tham gia nghiên cứu khoa học...
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Từ khái quát về những nguyên tắc trong dạy học đại học và sự vận dụng những nguyên tắc dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học các môn khoa học Mác – Lênin ở trường Đại học Đồng Nai hiện nay, có thể đi đến kết luận:
Một là, vận dụng có hiệu quả các nguyên tắc dạy học đại học trong giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin ở đại học sẽ hình thành được thế giới quan khoa học và những phẩm chất đạo đức cần thiết cho sinh viên như: tinh thần khắc phục khó khăn, lòng say mê và hứng thú khoa học, tính khiêm tốn, trung thực, dũng cảm và có ý thức tổ chức kỹ luật...
Hai là, thông qua việc vận dụng các nguyên tắc dạy học, tìm ra được các hình thức tổ chức, phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng sinh viên và nội dung của từng bài giảng, sẽ kích thích được tính tích cực, độc lập, sáng tạo trong họat động học tập của sinh viên - với tư cách là vai trò chủ thể của nhận thức.
Ba là, vận dụng đúng các nguyên tắc dạy học sẽ tạo ra được động lực giúp sinh viên tham gia giải quyết mâu thuẫn nảy sinh trong học tập. Từ đó, sinh viên sẽ tìm ra được cái mới về tri thức, kỹ năng rèn luyện phẩm chất hoạt động trí tuệ.
Bốn là, trong hoạt động dạy học, giảng viên phải thường xuyên chủ động nắm bắt được trình độ nhận thức của sinh viên để xây dựng một hệ thống câu hỏi, bài tập phù hợp với đối tượng nhận thức theo mức độ từ thấp đến cao nhằm phát huy năng lực nhận thức của sinh viên.
Năm là, chống thái độ buông xuôi, thả lỏng vai trò chủ đạo của người giảng viên trong họat động dạy học. Đồng thời, mỗi giảng viên cần ý thức được mặt hạn chế của bản thân để có kế họach bồi dưỡng, học tập rèn luyện nâng cao trình độ, vươn lên đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ dạy học ở đại học.
Một số đề xuất cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng các nguyên tắc dạy học ở đại học trong việc giảng dạy các môn khoa học Mác – Lênin ở Trường Đại học Đồng Nai hiện nay.
Thứ nhất, Bộ môn cần kết hợp với nhà trường trong việc cung cấp đầy đủ giáo trình và tài liệu tham khảo phục vụ cho họat động học tập của sinh viên; tạo điều kiện cho sinh viên được làm bài tập lớn hoặc đề án môn học theo đúng quy định hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Thứ hai, Nhà trường không nên bố trí lớp học quá đông (kể cả lớp ghép) vượt quá quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận dụng các nguyên tắc dạy học ở đại học.
Thứ ba, Tổ chuyên môn khi dự giờ của giảng viên nên căn cứ vào hiệu quả vận dụng các nguyên tắc dạy học làm tiêu chí để đánh giá chất lượng bài giảng. Trong đánh giá không nên coi trọng nguyên tắc này, xem nhẹ nguyên tắc khác.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A.Tài liệu tiếng Việt
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2016). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Hà Nội: Văn phòng Trung ương Đảng.
2. Trần Thị Hương (Chủ biên). (2009). Giáo trình giáo dục học đại cương. TP. Hồ chí Minh: Đại học Sư phạm TP. HCM.
3. Nguyễn Thị Lan. (2016). Đổi mới giáo dục đại học Việt Nam - Từ quan điểm đến giải pháp. Tạp chí Lý luận chính trị, số 7.
B. Tài liệu từ các trang Webs
4. https://cte.vnu.edu.vn/9-nguyen-tac-vang-trong-giang-day-dai-hoc/
5. http://www.queensu.ca/teachingandlearning/modules/ethics/04_s2_01_nine_ethical_principles.html
6. http://hocvienchinhtribqp.edu.vn/index.php/tu-tuong-tam-guong-dao-duc-ho-chi-minh/7-nguyen-tac-vang-trong-giang-day-dai-hoc.html
7.https://pol.ued.udn.vn/day-hoc-phat-trien-nang-luc-dua-tren-cac-nguyen-tac-nao.html